Thông số kỹ thuật của PAM
Jun 14, 2023Các chỉ số kỹ thuật của polyacrylamit nói chung là khối lượng phân tử, mức độ thủy phân, mức độ ion, độ nhớt, hàm lượng monome còn lại, v.v., do đó, chất lượng của PAM cũng có thể được đánh giá từ các chỉ số này!
1. Trọng lượng phân tử
Trọng lượng phân tử của PAM rất cao và đã được cải thiện rất nhiều trong những năm gần đây. Trọng lượng phân tử của PAM được sử dụng trong những năm 1970 nói chung là hàng triệu; Sau những năm 1980, trọng lượng phân tử của PAM hiệu quả nhất là hơn 15 triệu và một số đạt tới 20 triệu. Mỗi phân tử PAM này được trùng hợp từ hơn 100.000 phân tử acrylamide hoặc natri acrylate (trọng lượng phân tử của acrylamide là 71 và trọng lượng phân tử của PAM chứa 100.000 monome là 7,1 triệu). Nhìn chung, hiệu suất keo tụ của PAM có trọng lượng phân tử cao tốt hơn, trọng lượng phân tử của acrylamide là 71 và trọng lượng phân tử của PAM với 100.000 monome là 7,1 triệu. Trọng lượng phân tử của polyacrylamide và các dẫn xuất của nó nằm trong khoảng từ hàng trăm nghìn đến hơn 10 triệu, và có thể được chia thành trọng lượng phân tử thấp (dưới 1 triệu), trọng lượng phân tử trung bình (1 triệu đến 10 triệu), trọng lượng phân tử cao (10 triệu đến 15 triệu) và trọng lượng siêu phân tử (hơn 15 triệu) theo trọng lượng phân tử.
Trọng lượng phân tử của chất hữu cơ polyme, ngay cả trong cùng một sản phẩm cũng không hoàn toàn đồng nhất, trọng lượng phân tử danh nghĩa là trung bình của nó.
2, Mức độ thủy phân và mức độ ion
Mức độ ion của PAM có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng, tuy nhiên giá trị thích hợp của nó phụ thuộc vào loại và tính chất của vật liệu được xử lý mà sẽ có các giá trị tối ưu khác nhau trong các trường hợp khác nhau. Nếu cường độ ion của vật liệu được xử lý cao (chứa nhiều chất vô cơ hơn), thì mức độ ion của PAM được sử dụng phải cao hơn và ngược lại, nó phải thấp hơn. Nói chung, mức độ anion được gọi là mức độ thủy phân. Mức độ ion thường đề cập đến cation.
Độ ion =n/(m+n)*100%
PAM được sản xuất trong giai đoạn đầu được trùng hợp từ một monome polyacrylamide, ban đầu không chứa nhóm -COONa. Trước khi sử dụng, nên cho NaOH vào trước đun nóng để một phần nhóm -CONH2 thủy phân thành -COONa, phản ứng xảy ra như sau:
-CONH2 + NaOH -→ -Coona + NH3↑ Khí amoniac thoát ra trong quá trình thủy phân. Tỷ lệ thủy phân nhóm amit trong PAM được gọi là mức độ thủy phân của PAM, là mức độ của anion. Việc sử dụng loại PAM này không thuận tiện và hiệu suất kém (quá trình thủy phân gia nhiệt sẽ làm cho trọng lượng phân tử và hiệu suất của PAM giảm đáng kể), và nó hiếm khi được sử dụng sau những năm 1980.
Sản xuất PAM hiện đại có nhiều loại sản phẩm anion khác nhau, người dùng có thể lựa chọn loại thích hợp theo nhu cầu và thông qua thử nghiệm thực tế, không cần thủy phân, sau khi hòa tan có thể sử dụng được. Tuy nhiên, vì lý do thông thường, một số người vẫn gọi quá trình hòa tan của chất keo tụ là quá trình thủy phân. Cần lưu ý rằng ý nghĩa của quá trình thủy phân là thêm nước để phân hủy, là một phản ứng hóa học, quá trình thủy phân PAM có giải phóng khí amoniac; Hòa tan chỉ là một hành động vật lý, không có phản ứng hóa học. Hai cái này khác nhau về bản chất và không nên nhầm lẫn.
3, Hàm lượng monome còn lại
Hàm lượng monome còn lại của PAM đề cập đến hàm lượng monome acrylamide trong quá trình trùng hợp acrylamide thành polyacrylamide, không được phản ứng hoàn toàn và cuối cùng vẫn còn trong sản phẩm polyacrylamide và là một thông số quan trọng để đo xem nó có phù hợp với thực phẩm hay không. ngành công nghiệp. Polyacrylamide không độc, nhưng acrylamide có một số độc tính. Trong polyacrylamide công nghiệp, không thể tránh khỏi việc còn sót lại một lượng nhỏ monome acrylamide chưa trùng hợp. Do đó, hàm lượng monome còn lại trong các sản phẩm PAM phải được kiểm soát chặt chẽ. Các quy định quốc tế quy định rằng hàm lượng monome còn lại của PAM được sử dụng trong nước uống và công nghiệp thực phẩm không vượt quá 0,05%. Giá trị của các sản phẩm nước ngoài nổi tiếng thấp hơn 0,03%.
4. Độ nhớt
Dung dịch PAM rất nhớt. Độ nhớt dung dịch của PAM có khối lượng phân tử càng lớn thì càng lớn. Điều này là do các đại phân tử PAM là các chuỗi dài, mỏng có khả năng chống di chuyển trong dung dịch rất lớn. Bản chất của độ nhớt là phản ánh độ lớn của lực ma sát trong dung dịch hay còn gọi là hệ số nội ma sát. Độ nhớt của dung dịch của tất cả các loại chất hữu cơ polymer cao và tăng theo sự gia tăng trọng lượng phân tử. Một phương pháp để xác định trọng lượng phân tử của chất hữu cơ polymer là xác định độ nhớt của một nồng độ dung dịch nhất định trong các điều kiện nhất định, sau đó tính trọng lượng phân tử của nó theo một công thức nhất định, được gọi là "trọng lượng phân tử trung bình của độ nhớt".